-
Kinh Vô Lượng Thọ (HT. Thích Đức Niệm), Khổ A5, Bìa Giấy
0Kinh Vô Lượng Thọ do Hoà Thượng Thích Đức Niệm dịch.
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc không bị mỏi và chói mắt.
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh. Chúng sanh căn tánh bất đồng, thiên sai vạn biệt, nên đức Phật cũng theo đó mà có nhiều pháp môn để đáp ứng thích cơ hợp tánh chúng sanh. Tâm bịnh chúng sanh đa dạng, biến thái muôn ngàn, nên pháp dược trị liệu cũng có vạn thiên.
Pháp môn có sai khác, giáo pháp diễn đạt những pháp môn đó có cạn sâu. Nhưng dù sai khác cạn sâu thế nào đi nữa, thì giáo pháp đức Phật tựu trung vẫn là chìa khóa mở cửa tâm linh, những phương thuốc thần diệu trị liệu tâm bịnh chúng sinh, giải thoát phiền khổ. Ngài cũng thuyết minh về những hiện tượngthành hoại của vũ trụ, những sai biệt thăng trầm thạnh suy của kiếp người. Nhưng cội gốc của những hiện tượng đó đều do tâm sanh khởi. Tâm là nguồn gốc hình thành tất cả mọi hiện tượng, trạng tháithạnh suy, thành bại, thăng trầm của nhân sanh vũ trụ. Thế nên, giáo pháp của đức Phật là chìa khóa mở cửa tâm linh, là phương thuốc trừ sạch gốc rễ vô minh từ tâm thức con người, là con đường sáng ngời đưa chúng sanh từ phàm đến thánh.
Trong tất cả những pháp môn, những phương thuốc, những con đường sáng tịnh đó, được đức Phậttrình bày bàn bạc khắp trong tam tạng giáo điển. Nhưng đặc biệt pháp môn Tịnh độ thì đức Phật nhấn mạnh có tánh cách xác quyết với cả tấm lòng tha thiết khuyến lệ chúng sanh nên thực hành pháp môn này. Điều đó hiển lộ qua những thời pháp đặc thù được kết tụ thành kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v … Chẳng những trong pháp hội kinh A Di Đà Ngài diễn tả cảnh giới Tây phương Cực lạc một cách rõ ràng, mà ở pháp hội kinh Vô Lượng Thọ Ngài thuyết minh cho chúng sanh thấy nguyện lực đức Phật A Di Đà và nhân duyên mật thiết giữa chúng sanh cõi Ta bà với đức Phật này. Cũng chính trong pháp hội Vô Lượng Thọ, đức Thích Ca còn khẳng định rằng, chúng sanh cách Phật lâu xa về sau, ngoài pháp môn niệmPhật ra, không có pháp môn nào cứu giúp chúng sanh giải thoát luân hồi sanh tử có hiệu năng bằng pháp môn Tịnh độ. Và khi Phật pháp tận diệt hết trên cõi đời, chỉ còn lại độc nhất kinh Vô Lượng Thọ kéo dài thêm 100 năm nữa trước khi mạt pháp kết thúc. Người tu học Phật mà không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà đạt đạo giác ngộ giải thoát.
Nhận thấy lời huyền ký của đức Thích Ca về chân giá trị của pháp môn Tịnh độ và sự quý giá vô cùngcủa kinh Vô Lượng Thọ đối với người có thiện duyên chánh kiến chánh tâm, nhắm chánh đạo tiến bước, nên chúng tôi dịch bản kinh này để kết duyên. Bồ đề cùng bạn lành bốn phương, để cùng nhau hướng về con đường sáng lành thênh thang trước mặt, con đường chắc chắn giải thoát. Đó chính là con đườngTịnh độ, con đường an toàn vững chắc. Trên con đường đó có đức Phật A Di Đà phóng quang soi sáng, có Thánh chúng hộ trì, có Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc dắt đường. Như thế là tự lực, tha lựcđầy đủ đề huề đồng quy Cực Lạc. Trẻ thơ về quê có mẹ hiền cùng các anh chị đi bên cạnh thì còn lo gì lầm đường lạc lối?!
Ước mong bạn lành bốn phương sanh khởi tín tâm, tin lời Phật dạy, chánh niệm thực hành, thì nhất địnhcảnh giới Cực Lạc hiện tiền.
Mùa Vu Lan 1998
Thích Đức Niệm
-
Kinh Vô Lượng Thọ (HT. Thích Huệ Đăng)
0Giáo lý Đấng Thế Tôn trải qua hơn 2.500 năm đến nay vẫn còn có công năng thù thắng siêu việt, đánh bạt nghiệp chướng phiền não cứu thoát chúng sinh khỏi trầm luân trong vũng lầy sinh tử. Đối với người con Phật chân chính, thành tâm cầu Đạo giải thoát, lời châu ngọc của Ngài quả thật là một môn diệu được. Kinh điển qua những lần kết tập rồi lưu truyền đến bây giờ đã hướng dẫn tâm thức con người vươn lên cảnh giới trang nghiêm, thanh tịnh, gột sạch tội cấu, ái nhiễm của cõi đời.
Muốn đạt tới cảnh giới an vui giải thoát, điều kiện tiên quyết là phải lắng được tâm, gạn được ý như lời Phật thuyết: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”. (Tâm mình an tịnh thì cõi Phật hiện ra). Hiểu được như vậy hành giả tự thân rực rỡ quang minh và sẽ thấy cõi trang nghiêm của Phật. Sự kiện lắng được tâm, gạn được ý này nằm trong pháp môn Tịnh Độ mà Đấng Thế Tôn đã chúc lũy cho chúng sinh trong đời mạt pháp qua các yếu Kinh: Kinh Bi Hoa, Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Những Kinh giáo này nhằm tạo duyên khởi từ bi, trí tuệ cho người biết hồi tâm phục thiện, ngõ hầu thăng hoa cuộc sống cao đẹp trong thế giới đảo điên, mê muội. Hành giả, gột sạch trần cấu bằng cách thanh lọc tâm, làm tiêu ma nghiệp chướng được xem là nguyên động lực giao lưu qua cõi nước Cực Lạc, quốc độ của giải thoát thanh tịnh, trang nghiêm. Đó chính là miếng đất tâm rơi những phấn thông vàng. Hành giả có thể mường tượng lời Kinh huyền diệu hòa theo năm tháng lắng sâu vào tâm thức hữu tình để sinh thành quả phúc uy nghiêm, cao cả. Quý hóa thay! Kinh giáo của Pháp Môn Tịnh Độ.
Kinh A Di Đà quảng diễn cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của cõi nước Cực Lạc.
Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Bi Hoa xuất sinh từ công năng tu tập của Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo, ngộ nhập cảnh giới Cực Lạc phát khởi trí tuệ khi hành trì.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy các pháp tu quán tưởng Đức Phật Vô Lượng Thọ làm cơ duyên ứng hợp với cõi nước Cực Lạc. Chung quy, Pháp Môn Tịnh Độ cốt lấy: “Niệm giác bất tư nghị làm thể”. Bởi thế, nếu một niệm không móng lên thì đó là cái toàn nhất của con người thể nhập vào tự tánh nhiệm mầu. Ở đây, Tịnh Độ đã hòa nhập với Thiền là một. Hành giả không nên cố chấp, phân biệt Tịnh Độ hay Thiền. Vì lẽ cả hai (Thiền, Tịnh Độ) đều đưa hành giả đến cảnh giới bát ngát của hạnh Phật thừa. Tuy nhiên, Thiền đối với hạng hạ căn thật khó hành trì, bởi lẽ Thiền là nhiếp tất cả tâm trí vào cái thấy hiện tiền để trí tuệ quán chiếu và bao trùm tất cả trong một cái thấy toàn diện, nhất như. Lộ trình này quả thật là khó khăn nên chỉ dành cho những bậc Thượng căn, Thượng trí, mới đủ khả năng tư duy quán niệm. Nhận thấy phần đông Phật tử đang trên đường tập tu nên Pháp Môn Tịnh Độ dễ dàng dung hợp với tất cả, mọi căn cơ đều có thể thực hành được. Hành giả, khi hành trì Pháp Môn Tịnh Độ đạt đến trạng thái nhất tâm bất loạn, ấy là Thiền rồi vậy. Bởi lẽ, Thiền hay Tinh Độ đều đi đến mục đích chung là minh tâm kiến tánh. Phật tử phải nhận thức rằng: “Tiềm năng diệu dụng của công đức thụ trì Kinh là Bất tư nghì”. Có thể hiểu được ý chỉ thâm diệu này thì lúc trì Kinh Vô Lượng Thọ mới cảm nhận được 48 đại nguyện hóa độ chúng sinh nhập cảnh giới an vui giải thoát của Ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng mà Đấng Thế Tôn đã thuyết giáo và chúc lũy cho các chúng Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá thật là vô cùng diệu dụng.
Kinh Vô Lượng Thọ gồm có 4 phần chính yếu như sau:
Do cơ duyên Đại giác khởi lên và chư cổ Phật xuất hiện nơi núi Kỳ Xà Quật, Đức Phật nhân đó, thuyết Kinh Vô Lượng Thọ.
Nhân duyên Ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng phát 48 đại nguyện trước Đấng Thế Tôn và nhờ công đức tu tập thù thắng, đức hạnh thâm mật Ngài thành tựu Pháp thân hiệu A Di Đà, thể hiện cảnh giới như tâm nguyện và ngự trị cõi nước tên là Cực Lạc ở phương Tây.
Cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của cõi nước Cực Lạc gồm: Quang minh vô lượng, Thọ mệnh vô lượng và Thánh chúng vô lượng, cộng vào đó là đường sá, lầu gác, ao thất bảo, lại đủ các loại chim tiếng hót trong trẻo, cỏ hoa tươi nhuận, phô bày muôn sắc, phảng phất hương thơm. Lại có, từ những cánh sen hồng tự nhiên thai sanh Thánh chúng, diện mạo sáng ngời, đoan chính mà Nhật Nguyệt không thể sánh bằng. Lại có, y phục tốt, thức ăn sang, tự nhiên hóa thành do tâm niệm. Tất cả đều sang trọng quý báu vô cùng.
Những duyên khởi mầu nhiệm của trí tuệ trong cõi nước Cực Lạc và công đức tu tập tinh tấn đem lại lợi ích giải thoát tuyệt vời cho hành giả chân chính nhuần nhuyễn trì tụng, quán xét minh mẫn và tâm không còn ô nhiễm.
Tôi nhận thấy, Kinh Vô Lượng Thọ có nhiều nghĩa lý thâm diệu, triển khai trí tuệ quang minh và công đức trì tụng Kinh nầy thật là diệu dụng, xuất phát từ bản tâm thanh tịnh. Cũng bởi giá trị cao thâm đó, tôi đã tha thiết trong việc lưu truyền nên thành tâm phiên dịch bản Kinh này từ Nho văn của Ngài Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy ra Việt ngữ để quý Phật tử thường tụng hàng ngày hoặc trong các khóa lễ cầu siêu.
Dịch Kinh này, chúng tôi chỉ có một tâm nguyện mong mọi người dứt bỏ tà kiến, mê chấp, xem các pháp là như huyễn như hóa, đồng thời cùng nhau tinh tiến thực hành thiện pháp ngõ hầu đem lại lợi lạc an vui giải thoát cho kẻ còn, người mất.
Nam Mô A Di Đà Phật Tác Đại Chứng Minh.
Sài Thành, Mùa hạ năm Canh Tuất 1970
Sa môn THÍCH TUỆ ĐĂNG cẩn chí.
-
Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Giải Năm 1994 (HT. Tịnh Không)
0- Trọn bộ 2 quyển
Kinh Vô Lượng Thọ do Hoà Thượng giảng giải vào năm 1994.
-
Kinh Vô Lượng Thọ Khổ A4 (HT. Thích Đức Niệm)
0Kinh Vô Lượng Thọ.
- Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm
- Kích thước: 20 x 30cm (Khổ A4)
- Bìa cứng, có bao plastic bảo vệ bìa.
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc tụng không bị mỏi mắt.
Giá trên website không bao gồm phí vận chuyển.
Kinh Vô Lượng Thọ là một bộ kinh tiêu biểu của giáo lý Phật giáo Tịnh Độ Tông, người tu học Phật mà không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà đạt đạo giác ngộ giải thoát. Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm, Nguyên Hán bản: Ngài Hạ Liên Cư (hội tập).
-
Kinh Vô Lượng Thọ, Khổ Mini (HT. Thích Đức Niệm dịch)
0Kinh Vô Lượng Thọ bản mini, rất tiện dụng để quý Thầy, Cô, Phật tử đem theo bên mình để đọc tụng.
- Kích thước: 10 x 14cm
- Bìa cứng, có bao plastic bảo vệ bìa
Giá trên website chưa bao gồm phí vận chuyển.
-
Kinh Vu Lan Báo Hiếu (Khổ A5)
0Kinh Vu Lan Báo Hiếu là tên gọi tắt của Kinh Vu Lan, dạy về đạo hiếu thảo của Phật giáo.
- Việt dịch: HT. Thích Huệ Đăng.
- Kích thước: 14.5 x 20.5cm (Khổ A5)
-
Lá Thơ Tịnh Độ
0Trong các hành môn của đức Phật đã chỉ dạy, môn nào cũng có pháp nghi riêng biệt, từ cách thờ cúng, lễ bái, trì tụng, sám hối, phát nguyện v.v… Như Mật Tông lại còn sự lập đàn, kiết ấn nữa.
Riêng về tông Tịnh Độ, tôi thấy có nhiều người không biết nghi thức hành trì cho đúng pháp. Lại có những vị không hiểu nghĩa chữ Hán, thành ra khi trì tụng chỉ đọc suông theo thông lệ, khó phát lòng thành khẩn, không thể chuyển hướngtâm niệm của mình y như lời văn. Nghĩ vì dòng đời cứ mãi trôi qua, người sau càng ngày lại càng ít am hiểu văn từ Hán Việt, nên theo lời yêu cầu của một số đông, tôi soạn dịch nghi thức tu Tịnh Độ ra Việt văn để giúp bạn đồng tu.
Về pháp nghi Tịnh Độ, có ba bậc: thượng, trung, hạ. Để không quá đơn giản và khỏi phiền toái, tôi căn cứ theo pháp nghi của ngài Từ Vân trong Tịnh Độ Thập Yếu, soạn dịch nghi thức theo bậc trung. Về cách trì danh, vẫn có nhiều đường lối, theo chỗ kinh nghiệm và so với thời cơ, tôi chọn pháp Thập Niệm Ký Số.
Về pháp nghi Tịnh Độ, thuở xưa chia làm năm môn, tôi ước kết lại thành ba môn: lễ bái, trì tụng và phát nguyện hồi hướng. Vả lại, pháp môn Tịnh Độ có chuyên tu và kiêm tu; có vị chuyên niệm Phật, có vị lại kiêm tụng kinh, trì chú, sám hối hoặc tham thiền. Theo Ấn Quang Pháp Sư, thì người tu tịnh nghiệp phải lấy sự niệm Phật làm phần chính, mấy món kia làm phần phụ, phần chính cố nhiên phải giữ cho nhiều hơn. Riêng về tụng kinh, trì chú, nếu dùng để giúp cho phần niệm Phật và chí tâm hồi hướng, cầu vãng sanh, cũng có thể gọi là chuyên tu.
Trên pháp môn trì danh, sự hơn kém thật ra không phải ở nơi nghi thức, mà ở chỗ: âm thanh rành rõ hay lờ mờ, tâm niệm thành khẩn hay thờ ơ tán loạn, công trì tụng sâu nhiều hay cạn ít. Nếu người biết tu thì một lượt chiêm lễ, một câuxưng danh, công đức cũng hơn kẻ không biết tu rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không có pháp nghi cho đúng, thì công đức hành trì thì cũng khó phát huy đến chỗ viên mãn. Và vì thế tôi mới soạn ra nghi thức nầy.
Xưa và nay cách nhau, chúng sanh căn cơ sở thích đều sai khác, tôi không dám gọi việc làm nầy là hợp với mọi người, cũng không dám cho nghi thức đây là hơn những pháp nghi đã có, chỉ tùy chỗ mong cầu mà lạo thảo viết ra vậy thôi.
Liên Du Thích Thiền Tâm
-
Làm Sao Xây Dựng Quan Hệ 2 Giới Hoà Hợp Tôn Trọng
0“Đạo quân tử khởi đầu từ chỗ vợ chồng”. Làm sao xây dựng quan hệ hai giới hòa hợp tôn trọng, xây dựng hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn, nuôi dạy tốt thế hệ sau, là học vấn khá quan trọng liên quan mật thiết tới hạnh phúc thiết thực của mỗi người chúng ta. Vậy mà, học vấn quan trọng như thế, chúng ta lại chưa từng được học. Xã hội ngày nay, gia đình bất hòa, vấn đề giáo dục cho tới vấn đề ly hôn ngày càng nghiêm trọng, theo báo cáo, vào những năm 70 thế kỉ trước tỉ lệ ly hôn là 2%, còn tỉ lệ ly hôn hiện nay là 20%, đồng thời vẫn không ngừng đi về xu thế gia tăng. Ở các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, còn xuất hiện bác sĩ tâm lý chuyên nghiệp do chính phủ tuyển dụng để giúp đỡ giải quyết vấn đề gia đình. Nhưng phương thức này trị ngọn không trị gốc, trí huệ thật sự duy trì sự hòa hợp trong gia đình vẫn nằm trong giáo huấn của thánh hiền.
Thầy giáo Thái Lễ Húc nhiều năm nay đã dốc sức hoằng dương giáo dục văn hóa truyền thống, truyền thừa giáo huấn thánh hiền văn hóa xưa. Các khu vực trên thế giới, đặc biệt là trong học phủ cao cấp, đã nhiều lần tổ chức các diễn đàn chuyên đề dành cho thanh thiếu niên học sinh, được hoan nghênh sâu sắc. Thầy Thái nói với chúng ta, quan hệ vợ chồng phải “thận trọng khi khởi đầu”. Hôn nhân trước tiên phải quan sát rõ đối phương có phải là người bạn đời có thể chung sống một đời không. Giữa người và người chung sống đều sẽ trải qua một quá trình, trước hết nhất định bắt đầu từ sự “hội ngộ”, quen biết rồi, lại phát triển thành “tìm hiểu”, tìm hiểu lẫn nhau, kế đó là “tôn trọng”, cùng nhau quý trọng nhân duyên của nhau, tiếp theo là “thương yêu”, sau cùng là “kết hôn”. Kết hôn có phải là kết thúc rồi không? Rất nhiều người nói “hôn nhân là nấm mồ của tình yêu”, đây đều là cách nói sai lầm. Nếu như chung sống tốt đẹp, rượu sẽ càng ủ càng thơm, cho nên hôn nhân phải biết xây dựng, vợ chồng hai bên phải có cùng một giá trị quan.
Trong quan hệ ngũ luân, vợ chồng gọi là “phu phụ hữu biệt”, “phu phụ” (vợ chồng) là đạo, “hữu biệt” (khác biệt) là đức. Khác nhau chỗ nào? Khác chỗ trách nhiệm bất đồng, thời xưa là nam lo việc ngoài, nữ lo việc trong. Gia đình có hai trụ cột lớn, thứ nhất là sinh hoạt vật chất, thứ hai là sinh hoạt tinh thần. Nam lo việc ngoài, giải quyết vấn đề kinh tế, vấn đề vật chất; nữ lo việc trong, làm tốt sinh hoạt tinh thần, giáo dục tốt con cái. Việc lớn thứ nhất trong gia đình, là phải giáo dục tốt con cái, gọi là “việc chí yếu không gì bằng dạy con”. Giáo dục con cái trước hết phải lấy thân làm mẫu, thời xưa có nói “tam tòng tứ đức”, “chồng nói vợ nghe”, tức là yêu cầu đối với vợ chồng hai bên. Người làm chồng phải có ân nghĩa, phải có tình nghĩa, phải có đạo nghĩa; người làm vợ phải có “tứ đức”: Phụ đức, phụ ngôn, phụ công, phụ dung. Khi giữa vợ chồng có những nhận thức chung này, thì sẽ phối hợp rất tốt, sẽ có thể làm tấm gương tốt cho con cái.
Ngoài chuyên đề “Làm sao xây dựng quan hệ hai giới hòa hợp tôn trọng” và “Làm sao xây dựng hôn nhân hạnh phúc” của thầy giáo Thái Lễ Húc ra, quyển sách này còn ghi lại chuyên đề diễn giảng “Ý nghĩa truyền thống của hôn lễ” của cô giáo Lý Việt, đồng thời trích dẫn những nội dung đặc sắc trong “Nữ nhân như nước: Lưu Phương diễn giảng về hạnh phúc nhân sinh” của cô giáo Lưu Phương, tin là độc giả sẽ thể hội được ý nghĩa và mục đích chân chính của cuộc đời trong trí huệ cổ xưa của văn hóa truyền thống, “người nam có chức vụ, người nữ có chốn về”, tự làm tròn bổn phận của mình, chọn lựa cuộc đời của chính mình, thực hiện hạnh phúc mỹ mãn chân chính trong cuộc đời.
-
Liên Trì Cảnh Sách
0Cuốn sách “Liên Trì Cảnh Sách” này là do đệ tử kết tập lời khai thị quý báu của sư phụ thường ngày, sắp xếp lại mà thành. Trong này chỉ rõ rất nhiều khuyết điểm vì lơ là mà chính chúng ta là người hiện tại học Phật thường phạm phải. Nguyện có thể đối với những người chân chánh có tâm tu hành, cần đời này liễu sinh thoát tử. Hy vọng mỗi một vị học Phật đều có thể nắm chắc và chính xác phương hướng tu hành, không đến nỗi điên đảo lầm loạn, luống uổng.
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta. Chỉ nguyện những người cùng học Phật đều có thể chuyên tâm và hết sức ở nơi đây. Đối với sự nghiệp lớn vãng sinh của chúng ta, tất nhiên có ảnh hưởng quyết định và sâu xa.
Nam mô A-Di-đà Phật
Hội Phật giáo Liên Trì Công Đức
Kính ghi
-
Liễu Phàm Tứ Huấn (Phương pháp Tu Phúc Tích Đức, Cải Tạo Vận Mệnh)
0Liễu Phàm Tứ Huấn – Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức Cải Tạo Vận Mệnh.
- Kích thước: 14.5 x 20.5 (Khổ A5)
Người tin vào số mệnh thường cho là việc gì đến nó sẽ đến để tự an ủi mình khi gặp phải cảnh ngộ ngang trái không may thì nghĩ rằng số mệnh số phận đã như vậy đành chịu vậy. Nhưng số mệnh đâu có phải nhất định như thế mãi đối với ta. Đã có biết bao người tiền bạc như nước mà một sớm, một chiều hóa ra trắng tay, ngược lại nhiều người nghèo bỗng nhiên lại trở thành triệu phú, bởi lẽ giàu có mà lại làm nhiều điều ác thất đức, còn nghèo khó lại biết xả thân hành thiện, cứu giúp người, nên số được biến đổi, vì làm lành gặp lành, làm ác gặp ác. Do đó ta thấy rằng mệnh số là ở nơi tay ta và tự sửa, thay đổi được. Tố Nư tiên sinh đã từng phát biểu: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
Đây cũng là trường hợp của tác giả cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn.
Giá trên website chưa bao gồm phí vận chuyển.
-
Liễu Phàm Tứ Huấn Giảng Giải – HT. Tịnh Không
0Liễu Phàm Tứ Huấn Giảng Giải – Hoà Thượng Tịnh Không
- Kích thước 16 x 24cm
Giá trên website chưa bao gồm phí vận chuyển.
-
Long Thơ Tịnh Độ
0Bộ LONG THƠ TỊNH ĐỘ bằng Hán văn này do ngài Vương Nhựt Hưu đã sưu tập.
Thầy Tỳ Kheo Lê Phước Bình dịch Hán văn ra Việt ngữ để cống hiến cùng quý bạn đồng tu Tịnh độ. Y theo tuần tự thứ lớp trong bộ sách này để làm nguồn cội chỉ giác con đường nào phải đi, để khỏi phải lầm lạc vậy. Nếu tin cho thâm, niệm cho thiệt và nguyện cho chắc, thì chẳng đợi đến khi chết mới thấy Tịnh độ, hiện đương còn sống đây mà trong khi ta tịnh tọa quán tưởng, hay là chiêm bao, thì cũng thấy các lầu châu gác ngọc, thấy Phật và Bồ Tát, thấy La Hán và Thanh Văn, thấy đủ quốc độ nhân dân phong cảnh hy kỳ, dầu cõi Trời và cõi Tiên cũng không bì đặng. Đó cũng tại cái tư tưởng của mình thanh tịnh như vậy, thí như bóng của mình tốt, thì chụp vào cái máy bóng cũng tốt, tiếng của mình thanh, thì thâu vào cái máy tiếng cũng thanh. Vả lại bóng với tiếng vốn là vật vô tình, mà tinh thần còn đặng y nhau như vậy, huống chi lấy cái tâm hữu tình, mà tưởng cảnh hữu tình, thì làm sao lại không có cảm ứng. Nên phải biết rằng tánh ta với tánh Phật hai tánh in nhau, như nước hòa với nước, như dầu hiệp với dầu. Nếu ta niệm Phật, thì Phật tiếp ta, dắt dìu ta về cõi Tây phương, dễ như con rận nương theo áo người đi xa ngàn dặm vậy. Nhưng không vãng sinh là tại nơi người chớ không phải tại nơi pháp. Xưa ngài Thiên Như Hòa thượng nói rằng : “Chánh pháp tượng pháp chi hậu, chư kinh diệt tận, chi lưu A Di Đà Phật, tứ tự cứu độ mạt pháp chúng sinh, kỳ hữu bất tín giả ưng đọa địa ngục”. Nghĩa là : Sau khi chánh pháp qua rồi, thì các kinh lần lần tiêu diệt, chỉ còn lại bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sinh, trong đời mạt pháp nếu ai không tin thì phải đọa vào địa ngục. Lại ngài Liên Trì Đại sư nói rằng : “Mạt pháp Tỳ kheo tín tâm bất như cư sĩ, cư sĩ bất như nữ nhân”. Nghĩa là : Trong đời mạt pháp, tín tâm của mấy thầy Tỳ kheo phần nhiều thua mấy ông cư sĩ; còn mấy ông cư sĩ phần nhiều lại thua trong hàng nữ lưu. Vì cái tín căn của nữ lưu thậm hơn Tỳ kheo và Cư sĩ, nên tuy họ không hiểu chi về đạo lý, mà nghe đặng cái pháp niệm Phật thì họ do cái tánh linh của họ, mà định y giáo phụng hành, không có cái lý thuyết nào đánh đổ họ đặng. Còn mấy thầy Tỳ kheo và Cư sĩ thì tín căn không đặng quyết định, hay ỷ trí tư tưởng cao xa, hay làm sự thần kỳ mắc mỏ, nên cứu cánh vãng sinh thì ít mà bị đọa thì nhiều. (A Di Đà Phật, xin hoan hỷ). Nếu Tỳ kheo và Cư sĩ đã sẵn trí huệ như đây mà chuyên tu Tịnh độ thì chắc đặng thượng phẩm thượng sinh. Vậy hỡi ai ôi ! Ai là râu hùm cằm én, ai là đầu tròn áo vuông, xin đừng quá nhượng cái đài tọa sen vàng mà để cho khách hồng quần chiếm hết.