-
Kinh Phổ Môn nghĩa (HT. Thích Trí Tịnh)
0Kinh Phổ Môn được trích trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm. Là bài kinh được nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Loại kinh này được gọi với tên thông thường là kinh quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Qua bài kinh để giới thiệu “quán chiếu” cuộc đời nhằm cho chúng sinh giác ngộ, giải thoát bằng phương pháp tu tập phổ biến. Đức Phật dạy về hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sinh của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi gặp khổ nạn, nhất tâm xưng niệm danh hiệu Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thì Ngài sẽ hướng theo âm thanh cầu cứu đó mà giải cứu khổ nạn cho.
-
Kinh Thiện Ác Nhân Quả
0Kinh Phật thuyết thiện ác nhân quả rất chi tiết về những tội nghiệp đã gây và những quả báo phải nhận gánh.
-
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Thầy Tâm Minh dịch)
0Giá trên website chưa bao gồm phí vận chuyển.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Kích thước: 16 x 24cm
- Ruột giấy vàng, đọc tụng không bị mỏi mắt.
- Bìa cứng, có bao plastic bảo vệ bìa
-
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni
0Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni là bản kinh bảo hộ trẻ em. Ngoài ra, sức phá ác nghiệp của kinh này cực lớn, đặc biệt dành cho những ai trót nhỡ phá thai, muốn sám hối và giải nghiệp phá thai. Bạn xem nội dung kinh Phật thuyết, rồi theo đó mà đọc tụng, lợi lạc vô cùng!
-
Kinh Từ Bi Thuỷ Sám (Bìa Cứng)
0- Bìa cứng, có bao plastic bảo vệ bìa
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc không bị mỏi mắt
Thủy sám là tên tắt, do chính tác giả dùng trong văn. Tên tắt này gọi đủ là Từ bi thủy sám pháp. Sám pháp, gọi tắt là sám, nghĩa là phương pháp sám hối. Phương pháp này mệnh danh Từ bi thủy, gọi tắt là thủy, nghĩa là nước từ bi.
-
Kinh Từ Bi Thuỷ Sám Pháp, Bìa Giấy
0Kinh Từ Bi Thuỷ Sám Pháp. Việt dịch: HT. Thích Huyền Dung
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc không bị mỏi mắt
Thủy sám là tên tắt, do chính tác giả dùng trong văn. Tên tắt này gọi đủ là Từ bi thủy sám pháp. Sám pháp, gọi tắt là sám, nghĩa là phương pháp sám hối. Phương pháp này mệnh danh Từ bi thủy, gọi tắt là thủy, nghĩa là nước từ bi.
-
Kinh Vạn Phật (Thích Thiện Chơn)
0Kinh Vạn Phật, Phật nói ra một vạn một ngàn một trăm vị Phật, tuy có vị trùng danh, nhưng chẳng phải trùng Phật, chúng ta đọc hết bộ kinh này, như đến được cảnh giới Phật, thật là một bộ kinh tối thượng Ðại thừa, phước đức vô lượng vô biên. Nước Việt Nam ta chưa được lưu hành, hôm nay nhờ sự quảng đại bá tâm của chư sơn và thiện tín, góp công và của in ra chữ Việt thật là một món pháp bảo vô giá.
-
Kinh Vạn Phật, Khổ A4 (HT. Thích Thiền Tâm)
0LỢI ÍCH của PHÁP TU LẠY PHẬTThích Viên Thành.Lạy Phật lợi ích vô cùngLưu thông máu huyết khiêm cung tánh tìnhVừa có phước vừa dưỡng sinhHàng ngày thường lạy an khinh cõi lòng…Trong thời buổi hiện đại, với sự tiến bộ của khoa học, trong nhịp sống công nghiệp, máy móc và các tiện nghi vật chất đã thay thế sức người, con người ít vận động, nhưng phải chạy theo nhiều nhu cầu vật chất, nên quay cuồng với bao áp lực, nhất là những vị làm văn phòng và các nghề nghiệp ngồi một chỗ, không có nhiều thời gian để sống thỏa mái với thiên nhiên, khiến tinh thần dễ bị căng thẳng, cơ bắp toàn thân cũng tự nhiên căng cứng theo. Lại thêm vì thiếu vận động, cột xương sống trở nên cứng nhắc, rất khó uốn cong, từ đó các khoản cách giữa các cột xương sống bị chai lì và hẹp lại, đè lên chèn ép các dây thần kinh và mạch máu, khiến cho các chất dinh dưỡng và dưỡng khí không thể đến cung cấp các tế bào trong các cơ quan nội tạng, từ đó bệnh tật dễ phát khởi, tế bào ung thư có nhiều cơ hội phát triển..Lạy Phật là một pháp tu rất tiện lợi, khỏi cần đến chùa, ở trong phòng tại nhà, nơi vắng vẻ vẫn thực hành được, vừa thanh tịnh được tâm, vừa thể dục dưỡng sinh, giúp cho thân vận động toàn diện, từ đầu, cổ cho đến từng lóng tay, lóng chân, mà đặc biệt nhất là giúp điều chỉnh xương sống, cường hóa nội tạng, tăng thêm tế bào tốt và mang dưỡng khí đến khắp châu thân, giúp cuộc sống có được khoan khoái, an lành hơn..Cổ Đức có dạy: “Niệm Phật môt câu, phước sanh vô lượng, lạy Phật một lạy tội diệt hà sa”. Làm được thân người là phước báu rất lớn, nhưng nghiệp chướng cũng không ít, vì “nhân vô thập toàn”, khi chưa chứng Thánh, thì ‘nhất cử nhất động’ ai ai cũng còn tạo nhiều tội lỗi, vậy cần phải quán chiếu để thấy được lỗi lầm mà thành tâm sám hối, thì mới mong tiêu trừ được tội. Do vậy pháp tu lạy Phật là pháp tu phù hợp, nhiều lợi ích nhất..Khi lễ lạy chúng ta thực hiện “hồi quang phản chiếu” quay về với “tánh giác” thể hiện được lòng tôn kính và tâm ngưỡng mộ của mình đối với đấng Giác ngộ, hay những bậc Thánh, Thần, Đại ân nhân, thể hiện được lòng biết ơn, đền ơn. Khi lễ lạy, tiêu trừ được lòng tự cao ngã mạn của mình, tức là từng bước “quán chiếu thấy năm uẩn đều không, sẽ qua hết tất cả khổ đau ách nạn”. Khi lạy Phật cúi mình rạp xuống, thể hiện “bội trần hợp giác” hai tay xòe ra đón Phật, lúc đó Phật tánh trong ta hiển lộ, Đức Phật với lòng từ bi vô lượng sẽ thương cảm đến và gia hộ cho ta được kiết tường như ý và phước đức cũng từ đây sinh khởi..Trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt có dạy 10 Công đức của Lễ Phật:01- Tự mình có được sắc thân tươi đẹp nhiệm mầu02- Lời mình nói ra ai nấy đều tin.03- Đối với mọi người dù ác độc, mình không sợ hãi.04- Chư Phật thường gia hộ phò trì.05- Tự mình có đầy đủ oai nghi, được mọi người kính mến.06- Mọi người thảy đều muốn làm quen giúp đở.07- Chư Thiên đều yêu kính.08- Đầy đủ các điều phúc đức, hưởng mọi thanh nhàn.09- Khi chết nhận định được vãng sanh.10- Tự mình chứng quả vắng lặng Niết Bàn..Đấy là những công đức và lợi ích của việc lễ Phật theo kinh dạy, còn trong thực tế, khi thực hiện thường xuyên, đúng cách, pháp tu lạy Phật, bản thân của người viết bài nầy đã trải nghiệm, gặt hái được những điều lợi ích thiết thực như sau:.* Giúp Thân – Khẩu – Ý được thanh tịnh* Giúp cho tinh thần sảng khoái, máu huyết lưu thông, thân thể mạnh khỏe.* Tật bệnh tiêu trừ, nhất là bệnh “thoái hóa cột sống cổ, lưng và thoát vị đĩa đệm”, hết “đau thắt lưng” hóa giải được “thấp khớp”, làm tốt lại “hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết”, “điều hòa huyết áp”… thế là nghiệp chướng cũng lần hồi được chuyển hóa..* Giúp nhiếp được tâm, khi phải dùng sức chú ý theo dõi từng chữ, từng câu, không cho lộn hàng, lộn chữ, trong khi lạy, như trong kinh Di giáo Phật đã dạy: “chế tâm nhứt xứ vô sự bất biện” nên sẽ được hanh thông trong mọi việc..* Gặp được nhiều may mắn, được nhiều quý nhơn giúp đỡ, nên mọi ước nguyện cao đẹp sẽ được thành tựu. Bản thân người viết rất nghèo khó, nhưng khi tiến hành lễ lạy theo các Bộ Sám, Tam Thiên Phật, Kinh Vạn Phật…, đã được quý nhơn tài trợ cho đi hành hương xứ Phật Ấn Độ, tiếp tục phát nguyện lạy bộ kinh Pháp Hoa mỗi chữ mỗi lạy, với hơn 60 ngàn chữ, nơi Phật Thành Đạo, chốn linh thiêng Bồ Đề Đạo Tràng, với “từ trường” gấp 7 lần hơn các nơi khác, cộng thêm sự phấn chấn và quyết tâm của người viết, mỗi ngày lạy hơn 2 ngàn lạy, nên chỉ trong vòng 35 ngày đã lạy hoàn mãn bộ kinh Pháp Hoa với hơn 60 ngàn lạy, giúp ‘tội diệt phước sanh’ do đó khi về đến Việt Nam liền được bảo lãnh đi định cư ở Úc..Với sự mầu nhiệm nhiều ích lợi ấy, trong thời gian ở Úc người viết đã tiếp tục phát nguyện lạy các bộ sám, Ngũ Bách danh và Vạn Phật, trì lạy Đại Bi Sám Pháp, nên đã vượt qua được nhiều chướng ngại, nhất là đã chận đứng được bệnh “bowel cancer” ung thư đường ruột và ‘chuyển họa thành phước’, được chính phủ Úc nhiều nhân đạo, chữa trị bệnh, cấp nhà để có được nơi yên tịnh với đầy đủ tiện nghi, hầu tịnh dưỡng, sống tự tại, an lạc, bảo lãnh được người thân chăm sóc và cùng nhau tu tập hướng đến con đường giải thoát, giác ngộ. -
Kinh Vô Lượng Thọ (HT. Thích Đức Niệm), Khổ 16 x 24cm, Bìa Cứng
0Kinh Vô Lượng Thọ do Hoà Thượng Thích Đức Niệm dịch.
- Kích thước: 16 x 24cm
- Bìa cứng, có bao plastic bảo vệ bìa.
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc không bị mỏi và chói mắt.
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh. Chúng sanh căn tánh bất đồng, thiên sai vạn biệt, nên đức Phật cũng theo đó mà có nhiều pháp môn để đáp ứng thích cơ hợp tánh chúng sanh. Tâm bịnh chúng sanh đa dạng, biến thái muôn ngàn, nên pháp dược trị liệu cũng có vạn thiên.
Pháp môn có sai khác, giáo pháp diễn đạt những pháp môn đó có cạn sâu. Nhưng dù sai khác cạn sâu thế nào đi nữa, thì giáo pháp đức Phật tựu trung vẫn là chìa khóa mở cửa tâm linh, những phương thuốc thần diệu trị liệu tâm bịnh chúng sinh, giải thoát phiền khổ. Ngài cũng thuyết minh về những hiện tượngthành hoại của vũ trụ, những sai biệt thăng trầm thạnh suy của kiếp người. Nhưng cội gốc của những hiện tượng đó đều do tâm sanh khởi. Tâm là nguồn gốc hình thành tất cả mọi hiện tượng, trạng tháithạnh suy, thành bại, thăng trầm của nhân sanh vũ trụ. Thế nên, giáo pháp của đức Phật là chìa khóa mở cửa tâm linh, là phương thuốc trừ sạch gốc rễ vô minh từ tâm thức con người, là con đường sáng ngời đưa chúng sanh từ phàm đến thánh.
Trong tất cả những pháp môn, những phương thuốc, những con đường sáng tịnh đó, được đức Phậttrình bày bàn bạc khắp trong tam tạng giáo điển. Nhưng đặc biệt pháp môn Tịnh độ thì đức Phật nhấn mạnh có tánh cách xác quyết với cả tấm lòng tha thiết khuyến lệ chúng sanh nên thực hành pháp môn này. Điều đó hiển lộ qua những thời pháp đặc thù được kết tụ thành kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v … Chẳng những trong pháp hội kinh A Di Đà Ngài diễn tả cảnh giới Tây phương Cực lạc một cách rõ ràng, mà ở pháp hội kinh Vô Lượng Thọ Ngài thuyết minh cho chúng sanh thấy nguyện lực đức Phật A Di Đà và nhân duyên mật thiết giữa chúng sanh cõi Ta bà với đức Phật này. Cũng chính trong pháp hội Vô Lượng Thọ, đức Thích Ca còn khẳng định rằng, chúng sanh cách Phật lâu xa về sau, ngoài pháp môn niệmPhật ra, không có pháp môn nào cứu giúp chúng sanh giải thoát luân hồi sanh tử có hiệu năng bằng pháp môn Tịnh độ. Và khi Phật pháp tận diệt hết trên cõi đời, chỉ còn lại độc nhất kinh Vô Lượng Thọ kéo dài thêm 100 năm nữa trước khi mạt pháp kết thúc. Người tu học Phật mà không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà đạt đạo giác ngộ giải thoát.
Nhận thấy lời huyền ký của đức Thích Ca về chân giá trị của pháp môn Tịnh độ và sự quý giá vô cùngcủa kinh Vô Lượng Thọ đối với người có thiện duyên chánh kiến chánh tâm, nhắm chánh đạo tiến bước, nên chúng tôi dịch bản kinh này để kết duyên. Bồ đề cùng bạn lành bốn phương, để cùng nhau hướng về con đường sáng lành thênh thang trước mặt, con đường chắc chắn giải thoát. Đó chính là con đườngTịnh độ, con đường an toàn vững chắc. Trên con đường đó có đức Phật A Di Đà phóng quang soi sáng, có Thánh chúng hộ trì, có Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc dắt đường. Như thế là tự lực, tha lựcđầy đủ đề huề đồng quy Cực Lạc. Trẻ thơ về quê có mẹ hiền cùng các anh chị đi bên cạnh thì còn lo gì lầm đường lạc lối?!
Ước mong bạn lành bốn phương sanh khởi tín tâm, tin lời Phật dạy, chánh niệm thực hành, thì nhất địnhcảnh giới Cực Lạc hiện tiền.
Mùa Vu Lan 1998
Thích Đức Niệm
-
Kinh Vô Lượng Thọ (HT. Thích Đức Niệm), Khổ A5, Bìa Cứng
0Kinh Vô Lượng Thọ do Hoà Thượng Thích Đức Niệm dịch.
- Kích thước: A5 (14 x 20cm)
- Bìa cứng
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc không bị mỏi và chói mắt.
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương phápmở cửa tuệ giác tâm linh. Chúng sanh căn tánh bất đồng, thiên sai vạn biệt, nên đức Phật cũng theo đó mà có nhiều pháp mônđể đáp ứng thích cơ hợp tánh chúng sanh. Tâm bịnh chúng sanhđa dạng, biến thái muôn ngàn, nên pháp dược trị liệu cũng có vạn thiên.
Pháp môn có sai khác, giáo pháp diễn đạt những pháp môn đó có cạn sâu. Nhưng dù sai khác cạn sâu thế nào đi nữa, thì giáo pháp đức Phật tựu trung vẫn là chìa khóa mở cửa tâm linh, những phương thuốc thần diệu trị liệu tâm bịnh chúng sinh, giải thoát phiền khổ. Ngài cũng thuyết minh về những hiện tượngthành hoại của vũ trụ, những sai biệt thăng trầm thạnh suy của kiếp người. Nhưng cội gốc của những hiện tượng đó đều do tâm sanh khởi. Tâm là nguồn gốc hình thành tất cả mọi hiện tượng, trạng tháithạnh suy, thành bại, thăng trầm của nhân sanh vũ trụ. Thế nên, giáo pháp của đức Phật là chìa khóa mở cửa tâm linh, là phương thuốc trừ sạch gốc rễ vô minh từ tâm thức con người, là con đường sáng ngời đưa chúng sanh từ phàm đến thánh.
Trong tất cả những pháp môn, những phương thuốc, những con đường sáng tịnh đó, được đức Phậttrình bày bàn bạc khắp trong tam tạng giáo điển. Nhưng đặc biệt pháp môn Tịnh độ thì đức Phật nhấn mạnh có tánh cách xác quyết với cả tấm lòng tha thiết khuyến lệ chúng sanh nên thực hành pháp môn này. Điều đó hiển lộ qua những thời pháp đặc thù được kết tụ thành kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v … Chẳng những trong pháp hộikinh A Di Đà Ngài diễn tả cảnh giới Tây phương Cực lạc một cách rõ ràng, mà ở pháp hội kinh Vô Lượng Thọ Ngài thuyết minh cho chúng sanh thấy nguyện lực đức Phật A Di Đà và nhân duyênmật thiết giữa chúng sanh cõi Ta bà với đức Phật này. Cũng chính trong pháp hội Vô Lượng Thọ, đức Thích Ca còn khẳng định rằng, chúng sanh cách Phật lâu xa về sau, ngoài pháp môn niệmPhật ra, không có pháp môn nào cứu giúp chúng sanh giải thoát luân hồi sanh tử có hiệu năng bằng pháp môn Tịnh độ. Và khi Phật pháp tận diệt hết trên cõi đời, chỉ còn lại độc nhất kinh Vô Lượng Thọ kéo dài thêm 100 năm nữa trước khi mạt pháp kết thúc. Người tu học Phật mà không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà đạt đạo giác ngộ giải thoát.
Nhận thấy lời huyền ký của đức Thích Ca về chân giá trị của pháp môn Tịnh độ và sự quý giá vô cùngcủa kinh Vô Lượng Thọđối với người có thiện duyên chánh kiến chánh tâm, nhắm chánh đạo tiến bước, nên chúng tôi dịch bản kinh này để kết duyên. Bồ đề cùng bạn lành bốn phương, để cùng nhau hướng về con đường sáng lành thênh thang trước mặt, con đường chắc chắngiải thoát. Đó chính là con đườngTịnh độ, con đường an toànvững chắc. Trên con đường đó có đức Phật A Di Đà phóng quangsoi sáng, có Thánh chúng hộ trì, có Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc dắt đường. Như thế là tự lực, tha lựcđầy đủ đề huề đồng quy Cực Lạc. Trẻ thơ về quê có mẹ hiền cùng các anh chị đi bên cạnh thì còn lo gì lầm đường lạc lối?!
Ước mong bạn lành bốn phương sanh khởi tín tâm, tin lời Phật dạy, chánh niệm thực hành, thì nhất địnhcảnh giới Cực Lạc hiện tiền.
Mùa Vu Lan 1998
Thích Đức Niệm
-
Kinh Vô Lượng Thọ (HT. Thích Đức Niệm), Khổ A5, Bìa Giấy
0Kinh Vô Lượng Thọ do Hoà Thượng Thích Đức Niệm dịch.
- Ruột giấy vàng cao cấp, đọc không bị mỏi và chói mắt.
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh. Chúng sanh căn tánh bất đồng, thiên sai vạn biệt, nên đức Phật cũng theo đó mà có nhiều pháp môn để đáp ứng thích cơ hợp tánh chúng sanh. Tâm bịnh chúng sanh đa dạng, biến thái muôn ngàn, nên pháp dược trị liệu cũng có vạn thiên.
Pháp môn có sai khác, giáo pháp diễn đạt những pháp môn đó có cạn sâu. Nhưng dù sai khác cạn sâu thế nào đi nữa, thì giáo pháp đức Phật tựu trung vẫn là chìa khóa mở cửa tâm linh, những phương thuốc thần diệu trị liệu tâm bịnh chúng sinh, giải thoát phiền khổ. Ngài cũng thuyết minh về những hiện tượngthành hoại của vũ trụ, những sai biệt thăng trầm thạnh suy của kiếp người. Nhưng cội gốc của những hiện tượng đó đều do tâm sanh khởi. Tâm là nguồn gốc hình thành tất cả mọi hiện tượng, trạng tháithạnh suy, thành bại, thăng trầm của nhân sanh vũ trụ. Thế nên, giáo pháp của đức Phật là chìa khóa mở cửa tâm linh, là phương thuốc trừ sạch gốc rễ vô minh từ tâm thức con người, là con đường sáng ngời đưa chúng sanh từ phàm đến thánh.
Trong tất cả những pháp môn, những phương thuốc, những con đường sáng tịnh đó, được đức Phậttrình bày bàn bạc khắp trong tam tạng giáo điển. Nhưng đặc biệt pháp môn Tịnh độ thì đức Phật nhấn mạnh có tánh cách xác quyết với cả tấm lòng tha thiết khuyến lệ chúng sanh nên thực hành pháp môn này. Điều đó hiển lộ qua những thời pháp đặc thù được kết tụ thành kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v … Chẳng những trong pháp hội kinh A Di Đà Ngài diễn tả cảnh giới Tây phương Cực lạc một cách rõ ràng, mà ở pháp hội kinh Vô Lượng Thọ Ngài thuyết minh cho chúng sanh thấy nguyện lực đức Phật A Di Đà và nhân duyên mật thiết giữa chúng sanh cõi Ta bà với đức Phật này. Cũng chính trong pháp hội Vô Lượng Thọ, đức Thích Ca còn khẳng định rằng, chúng sanh cách Phật lâu xa về sau, ngoài pháp môn niệmPhật ra, không có pháp môn nào cứu giúp chúng sanh giải thoát luân hồi sanh tử có hiệu năng bằng pháp môn Tịnh độ. Và khi Phật pháp tận diệt hết trên cõi đời, chỉ còn lại độc nhất kinh Vô Lượng Thọ kéo dài thêm 100 năm nữa trước khi mạt pháp kết thúc. Người tu học Phật mà không đọc, không tin lời đức Phật nói ở kinh Vô Lượng Thọ, thì quả thật khó mà đạt đạo giác ngộ giải thoát.
Nhận thấy lời huyền ký của đức Thích Ca về chân giá trị của pháp môn Tịnh độ và sự quý giá vô cùngcủa kinh Vô Lượng Thọ đối với người có thiện duyên chánh kiến chánh tâm, nhắm chánh đạo tiến bước, nên chúng tôi dịch bản kinh này để kết duyên. Bồ đề cùng bạn lành bốn phương, để cùng nhau hướng về con đường sáng lành thênh thang trước mặt, con đường chắc chắn giải thoát. Đó chính là con đườngTịnh độ, con đường an toàn vững chắc. Trên con đường đó có đức Phật A Di Đà phóng quang soi sáng, có Thánh chúng hộ trì, có Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc dắt đường. Như thế là tự lực, tha lựcđầy đủ đề huề đồng quy Cực Lạc. Trẻ thơ về quê có mẹ hiền cùng các anh chị đi bên cạnh thì còn lo gì lầm đường lạc lối?!
Ước mong bạn lành bốn phương sanh khởi tín tâm, tin lời Phật dạy, chánh niệm thực hành, thì nhất địnhcảnh giới Cực Lạc hiện tiền.
Mùa Vu Lan 1998
Thích Đức Niệm
-
Kinh Vô Lượng Thọ (HT. Thích Huệ Đăng)
0Giáo lý Đấng Thế Tôn trải qua hơn 2.500 năm đến nay vẫn còn có công năng thù thắng siêu việt, đánh bạt nghiệp chướng phiền não cứu thoát chúng sinh khỏi trầm luân trong vũng lầy sinh tử. Đối với người con Phật chân chính, thành tâm cầu Đạo giải thoát, lời châu ngọc của Ngài quả thật là một môn diệu được. Kinh điển qua những lần kết tập rồi lưu truyền đến bây giờ đã hướng dẫn tâm thức con người vươn lên cảnh giới trang nghiêm, thanh tịnh, gột sạch tội cấu, ái nhiễm của cõi đời.
Muốn đạt tới cảnh giới an vui giải thoát, điều kiện tiên quyết là phải lắng được tâm, gạn được ý như lời Phật thuyết: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”. (Tâm mình an tịnh thì cõi Phật hiện ra). Hiểu được như vậy hành giả tự thân rực rỡ quang minh và sẽ thấy cõi trang nghiêm của Phật. Sự kiện lắng được tâm, gạn được ý này nằm trong pháp môn Tịnh Độ mà Đấng Thế Tôn đã chúc lũy cho chúng sinh trong đời mạt pháp qua các yếu Kinh: Kinh Bi Hoa, Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Những Kinh giáo này nhằm tạo duyên khởi từ bi, trí tuệ cho người biết hồi tâm phục thiện, ngõ hầu thăng hoa cuộc sống cao đẹp trong thế giới đảo điên, mê muội. Hành giả, gột sạch trần cấu bằng cách thanh lọc tâm, làm tiêu ma nghiệp chướng được xem là nguyên động lực giao lưu qua cõi nước Cực Lạc, quốc độ của giải thoát thanh tịnh, trang nghiêm. Đó chính là miếng đất tâm rơi những phấn thông vàng. Hành giả có thể mường tượng lời Kinh huyền diệu hòa theo năm tháng lắng sâu vào tâm thức hữu tình để sinh thành quả phúc uy nghiêm, cao cả. Quý hóa thay! Kinh giáo của Pháp Môn Tịnh Độ.
Kinh A Di Đà quảng diễn cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của cõi nước Cực Lạc.
Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Bi Hoa xuất sinh từ công năng tu tập của Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo, ngộ nhập cảnh giới Cực Lạc phát khởi trí tuệ khi hành trì.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy các pháp tu quán tưởng Đức Phật Vô Lượng Thọ làm cơ duyên ứng hợp với cõi nước Cực Lạc. Chung quy, Pháp Môn Tịnh Độ cốt lấy: “Niệm giác bất tư nghị làm thể”. Bởi thế, nếu một niệm không móng lên thì đó là cái toàn nhất của con người thể nhập vào tự tánh nhiệm mầu. Ở đây, Tịnh Độ đã hòa nhập với Thiền là một. Hành giả không nên cố chấp, phân biệt Tịnh Độ hay Thiền. Vì lẽ cả hai (Thiền, Tịnh Độ) đều đưa hành giả đến cảnh giới bát ngát của hạnh Phật thừa. Tuy nhiên, Thiền đối với hạng hạ căn thật khó hành trì, bởi lẽ Thiền là nhiếp tất cả tâm trí vào cái thấy hiện tiền để trí tuệ quán chiếu và bao trùm tất cả trong một cái thấy toàn diện, nhất như. Lộ trình này quả thật là khó khăn nên chỉ dành cho những bậc Thượng căn, Thượng trí, mới đủ khả năng tư duy quán niệm. Nhận thấy phần đông Phật tử đang trên đường tập tu nên Pháp Môn Tịnh Độ dễ dàng dung hợp với tất cả, mọi căn cơ đều có thể thực hành được. Hành giả, khi hành trì Pháp Môn Tịnh Độ đạt đến trạng thái nhất tâm bất loạn, ấy là Thiền rồi vậy. Bởi lẽ, Thiền hay Tinh Độ đều đi đến mục đích chung là minh tâm kiến tánh. Phật tử phải nhận thức rằng: “Tiềm năng diệu dụng của công đức thụ trì Kinh là Bất tư nghì”. Có thể hiểu được ý chỉ thâm diệu này thì lúc trì Kinh Vô Lượng Thọ mới cảm nhận được 48 đại nguyện hóa độ chúng sinh nhập cảnh giới an vui giải thoát của Ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng mà Đấng Thế Tôn đã thuyết giáo và chúc lũy cho các chúng Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá thật là vô cùng diệu dụng.
Kinh Vô Lượng Thọ gồm có 4 phần chính yếu như sau:
Do cơ duyên Đại giác khởi lên và chư cổ Phật xuất hiện nơi núi Kỳ Xà Quật, Đức Phật nhân đó, thuyết Kinh Vô Lượng Thọ.
Nhân duyên Ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng phát 48 đại nguyện trước Đấng Thế Tôn và nhờ công đức tu tập thù thắng, đức hạnh thâm mật Ngài thành tựu Pháp thân hiệu A Di Đà, thể hiện cảnh giới như tâm nguyện và ngự trị cõi nước tên là Cực Lạc ở phương Tây.
Cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của cõi nước Cực Lạc gồm: Quang minh vô lượng, Thọ mệnh vô lượng và Thánh chúng vô lượng, cộng vào đó là đường sá, lầu gác, ao thất bảo, lại đủ các loại chim tiếng hót trong trẻo, cỏ hoa tươi nhuận, phô bày muôn sắc, phảng phất hương thơm. Lại có, từ những cánh sen hồng tự nhiên thai sanh Thánh chúng, diện mạo sáng ngời, đoan chính mà Nhật Nguyệt không thể sánh bằng. Lại có, y phục tốt, thức ăn sang, tự nhiên hóa thành do tâm niệm. Tất cả đều sang trọng quý báu vô cùng.
Những duyên khởi mầu nhiệm của trí tuệ trong cõi nước Cực Lạc và công đức tu tập tinh tấn đem lại lợi ích giải thoát tuyệt vời cho hành giả chân chính nhuần nhuyễn trì tụng, quán xét minh mẫn và tâm không còn ô nhiễm.
Tôi nhận thấy, Kinh Vô Lượng Thọ có nhiều nghĩa lý thâm diệu, triển khai trí tuệ quang minh và công đức trì tụng Kinh nầy thật là diệu dụng, xuất phát từ bản tâm thanh tịnh. Cũng bởi giá trị cao thâm đó, tôi đã tha thiết trong việc lưu truyền nên thành tâm phiên dịch bản Kinh này từ Nho văn của Ngài Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy ra Việt ngữ để quý Phật tử thường tụng hàng ngày hoặc trong các khóa lễ cầu siêu.
Dịch Kinh này, chúng tôi chỉ có một tâm nguyện mong mọi người dứt bỏ tà kiến, mê chấp, xem các pháp là như huyễn như hóa, đồng thời cùng nhau tinh tiến thực hành thiện pháp ngõ hầu đem lại lợi lạc an vui giải thoát cho kẻ còn, người mất.
Nam Mô A Di Đà Phật Tác Đại Chứng Minh.
Sài Thành, Mùa hạ năm Canh Tuất 1970
Sa môn THÍCH TUỆ ĐĂNG cẩn chí.